Chất hoạt hoá plasminogen
- Bởi : Admin
- - Chuyên mục : Tin Tức Sức Khỏe
Contents
Gen mã hoá đế tống họp t-PA nằm trên nhiễm sắc thể số 8, với chiều dài 36.6 Kb và có 14 exons.t-PA được sản xuất chủ yếu từ tế bào nội mạc (tĩnh mạch, mao mạch,động mạch phổi..)
– Ngoài ra có thể thấy t-PA trong tiểu thể của các tế bào cạnh biểu mô, mẫu tiểu cầu, bạch cầu mono… tuy nhiên khó sử dụng và khó chiết xuất hơn so với ớ tế bào nội mạc.
– Cấu trúc: t-PA là một serin protease, có trọng lượng phân tử bằng 68 KD.
– Khi tế bào nội mạc tổng hợp ra thì t-PA là một chuỗi polypeptid. Sau đó dưới tác dụng của plasmin, kallikrein và yếu tố Xa thì t-PA một chuỗi này bị phân cất ở các vị trí Arg (275) và Ile (276) thành t-PA hai chuỗi.
– Hiệu lực xúc tác của t-PA cực đại ở pH kiềm ; ở pH này hoạt tính cùa tPA còn bền vững sau khi đun 56 °c trong 30 phút.
– Thải trừ: t-PA được thải trừ qua gan, chủ yếu ở dạng có liên kết với yếu tố ức chế chất hoạt hoá plasminogen l(PAI-l=plasminogen activator inhibitor -1), qua một thụ thê nằm trên tê bào gan. Ngoài ra t-PA còn được thải trừ bởi các tế bào thuộc hệ liên võng nội mô nữa (như tế bào nội mạc, tế bào Kuffer cúa gan..).
– Trước đây người ta chiết xuất t-PA từ mô tử cung và tế bào nuôi cấy u hắc tố; ngày nay đã có thể sản xuất t-PA qua con đường sinh tổng hợp gen.
– Cơ chế tác dụng của t-PA:
+ t-PA là một serin protease, có tác dụng chuyến plasminogen thành plasmin; từ đây plasmin sẽ thực hiện việc tiêu fibrin.
+ t-PA hoạt hoá plasminogen bằng cách phân cắt mối liên kết giữa arginin 561 và valin 562 đế tạo ra plasmin.
– Tác động hoạt hoá này được tạo điều kiện bởi sự hiện diện của fibrin. Với nồng độ t-PA bình thường trong máu, nếu không có fibrin thì tác dụng hoạt hoá chuyển plasminogen thành plasmin không xảy ra. Nhưng nếu có mặt của fibrin thì ái lực cùa t-PA đối với plasminogen sẽ tăng lên khoảng 100 lần và tác dụng hoạt hoá sẽ xảy ra.
– Tác dụng làm tiêu fibrin rất mạnh của t-PA là do bới t-PA đã cùng với yếu tố plasminogen gắn một cách dễ dàng lên sợi fibrin qua các acid amin lysin. Tác dụng này cũng xảy ra với fibrinogen nhưng ít hơn nhiều, bởi vì vị trí gắn t-PA trên phân tử fibrinogen bị che khuất và chi hiện ra trong một số trường hợp bệnh lý hoặc trong điều kiện thực nghiệm.
– Một số thay đổi của t-PA trong sinh lý và bệnh lý:
+Bình thường t-PA có nồng độ rất thấp trong huyết tương, và có 80% liên kết với chất ức chế đặc hiệu là PAI-1 .
Trong in-vivo và in-vitro cho thấy có một số phân tử xuất hiện trong viêm có khả năng kích thích sản xuất t-PA.
+ Khi hoạt động thể lực hoặc bị stress thì sẽ tăng sản xuất t-PA, có lẽ qua vai trò của acetylcholin và adrenalin. Một số chất khác như endothelin-1, prostacyclin, các gốc tự do cũng làm tăng khả năng sản xuất t-PA. Ngộ độc thuốc lá cấp làm tăng nồng độ t-PA.
+ Một số bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch cho thấy nồng độ t-PA trong máu bị giảm.
Không có phản hồi